Máy nông nghiệp Việt bị đè bẹp: Kỳ 2 – Đầu tư thiếu đồng bộ

Máy nông nghiệp Việt bị “đè bẹp” – xét đến cùng nguyên nhân chính không nằm ở phía năng lực của DN nội địa mà là do cách thức quản lý, phát triển thị trường cơ khí nông nghiệp từ nhiều năm nay bị bỏ lửng, không có sự đầu tư mang tính hệ thống và đồng bộ.


Ảnh minh họa

Đó là chia sẻ của TS Phạm Anh Tuấn – Phó Viện trưởng, Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch, Bộ NN&PTNT cùng DĐDN trước bài: “Máy nông nghiệp: Hàng Việt bị “đè bẹp” đăng trên số báo DĐDN mới đây.

Theo ông Tuấn, trên thế giới, rất khó tìm được quốc gia nào có thể chủ động được mọi công đoạn sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh, nhưng cũng chưa thấy quốc gia nào đứng trong tốp đầu về xuất khẩu nông sản mà lại phải đi mua vật tư nông nghiệp nhiều như VN.

– Dưới khía cạnh vốn đầu tư, thì ở thời điểm hiện nay, các DN ngành cơ khí nông nghiệp không có nhiều vướng mắc, nhưng tại sao DN ngại đầu tư, thưa ông?

Ở thị trường nội địa, DN có thị phần lớn nhất là TCty Máy động lực và máy nông nghiệp VN (VEAM) chiếm khoảng 40% thị phần của các nhà sản xuất máy nông nghiệp trong nước. Còn lại, đa số cơ sở chế tạo máy nông nghiệp của VN là xưởng cơ khí địa phương, nhỏ lẻ, vì vậy kỹ thuật thiết kế và công nghệ chế tạo bị hạn chế, các chi tiết máy chất lượng thấp dẫn đến làm tăng chi phí bảo trì, sửa chữa, từ đó nông dân không ưa chuộng. Chính vì không bán được hàng nên các cơ sở, DN trong nước càng ngại đầu tư cho khâu nghiên cứu, chế tạo và lâu dần trở thành bị phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu.

Mặt khác, để chế tạo được các loại máy móc nông nghiệp phải có nhiều sản phẩm phụ trợ, trong khi ngành công nghiệp phụ trợ của ta chưa đáp ứng được nên phải lệ thuộc vào nhập khẩu.

– Có nghĩa là năng lực của DN nội còn hạn chế, thưa ông ?

Xét đến cùng thì nguyên nhân chính lại không nằm ở phía năng lực của DN nội địa mà là do cách thức quản lý, phát triển thị trường cơ khí nông nghiệp từ nhiều năm nay bị bỏ lửng, không có sự đầu tư mang tính hệ thống và đồng bộ.

Bởi lẽ, mặc dù được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn là “bệ đỡ” cho nền kinh tế, nhưng đến nay, cả nước hiện mới có gần 500 ngàn máy kéo các loại với tổng công suất trên 5 triệu mã lực (HP), có 589 ngàn máy tuốt, đập lúa, riêng ĐBSCL có hơn 11 ngàn máy gặt các loại (trong đó, hơn 6.600 máy gặt đập liên hợp)… Có thể nói, chúng ta mới chỉ cơ giới hóa được ở khâu làm đất, tuốt đập, vận chuyển và xay xát… lúa gạo, còn các khâu khác như gieo cấy, thu hoạch, chăm sóc… vẫn còn phụ thuộc vào lao động thủ công là chính. Ngoài ra, hiện trạng cơ giới hóa trong nông nghiệp còn chưa đồng bộ, toàn diện. Tính chung, trang bị động lực trong sản xuất mới chỉ được 1,3 HP/ha canh tác. So với một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc, trang bị cơ giới hóa của ta chỉ bằng 1/3 của Thái Lan, 1/4 Hàn Quốc và 1/6 Trung Quốc.

– Vậy theo ông, để giải quyết những vướng mắc trong đầu tư, chúng ta cần phải làm gì ?

So với một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc, trang bị cơ giới hóa của ta chỉ bằng 1/3 của Thái Lan, 1/4 Hàn Quốc và 1/6 Trung Quốc.

Tôi cho rằng, nếu chúng ta đã có một kế hoạch hỗ trợ nông dân mua máy như Quyết định 497 của Thủ tướng Chính phủ thì hoàn toàn có thể đặt ra kế hoạch cho việc đầu tư các nhà máy sản xuất máy nông nghiệp từ chính các nguồn tài chính đã giúp cho nông dân thì khả năng sẽ nâng dần được tỷ lệ sử dụng máy trong nước. Nhưng nguồn tài chính phải được đặt đúng địa chỉ. Có như thế, mới kích cầu cho lực lượng cơ khí trong nước phát triển.

Tựu chung lại, để các sản phẩm máy nông cụ sản xuất trong nước có thể chiếm lĩnh được thị trường nội địa, cần phải có sự nỗ lực từ cả phía DN, nhà nước lẫn người tiêu dùng. Cụ thể, về phía các DN, cần đặc biệt quan tâm đến khâu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm hạ giá thành để cạnh tranh. Đồng thời phải xây dựng, phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm để không chỉ bán hàng mà còn tư vấn, bảo hành sản phẩm.

Còn về phía Nhà nước, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để cân đối nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp, nhưng chúng ta cũng cần phải tính hiệu quả của sự đầu tư, để từ đó phân hạng đầu tư theo cấp bậc cho phù hợp. Song song với đó, cần có các biện pháp để hạn chế DN gian lận thương mại, lợi dụng kẽ hở của Luật để nhập khẩu các loại máy móc thiết bị nông nghiệp giá rẻ về tiêu thụ trong nước, khiến nhiều DN nội gặp khó trong cạnh tranh tiêu dùng. Hơn nữa, để thúc đẩy thị trường máy móc thiết bị nội địa phát triển thì vấn đề tập trung chính sách hỗ trợ cơ giới hóa nông nghiệp, nông thôn là rất cần thiết. Nó không đơn giản chỉ là việc hỗ trợ nông dân vay tín dụng mua sắm trang thiết bị mà nó còn bao hàm cả việc tìm kiếm đầu ra ổn định cho nông sản.

– Xin cảm ơn ông!

Theo dddn