Thay đổi tư duy cổ phần hóa

Thay vì hỗ trợ sắp xếp DN theo đúng tên gọi của Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN, tại các Cty mẹ của Tập đoàn kinh tế, TCty nhà nước, Cty mẹ trong tổ hợp Cty mẹ – Cty con, thì các tập đoàn, TCty, lại dùng số tiền này, để kinh doanh thua… lỗ.
Ảnh minh họa

Được biết, theo kết quả thanh tra của Bộ Tài chính, hiện có 23/24 DN có hoạt động thu, chi Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN (riêng Cty MTV Phát triển công nghiệp Tân Thuận không phát sinh Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN vì chưa cổ phần hóa – CPH), trong đó, 10/23 TCT chưa thu hồi về Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN tại thời điểm 30/6/2014 là hơn 225 tỷ đồng. Trong khi đó, theo quy định, tiền thu từ CPH và lợi nhuận còn lại sau khi đã trích nộp 3 quỹ ở DN phải được nộp về Quỹ hỗ trợ và sắp xếp DN của Chính phủ. Thế nhưng, nhiều đơn vị, lâu nay được tiếng là tài chính dồi dào, có lợi nhuận cao lại tỏ ra “lơ là” với nghĩa vụ của mình.
Được giao quyền quá lớn
Kết luận trên, của Thanh tra Bộ Tài Chính nhắc tôi nhớ tới kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ đối với Tập đoàn Hóa chất (Vinachem) khi Tập đoàn này, đã sử dụng 700 tỷ đồng thuộc Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa (CPH) DN bị sai mục đích hoặc chưa được phép. Hay Vinalines cũng vậy, khi bỏ vốn cho 26 Cty con, 38 liên doanh, Cty liên kết và sau đó, các Cty con này lại tiếp tục góp vốn tại 94 Cty cháu…
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, trong khi, Bộ Tài chính đã có hẳn một Thông tư số 10/2013/TT-BTC ngày 18/1/2013 hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN tại các Cty mẹ của Tập đoàn kinh tế, TCty nhà nước, Cty mẹ trong tổ hợp Cty mẹ – Cty con, vậy nhưng, chúng ta vẫn để tình trạng một “con voi” có thể “chui lọt qua lỗ kim”. Và đương nhiên, với kết quả thanh tra vừa được Thanh tra Bộ Tài chính kết luận, xem ra các Tập đoàn, TCty không cần sử dụng Quỹ này cho mục đích hỗ trợ sắp xếp DN như ý tưởng ban đầu thành lập quỹ ?
Đại diện Thanh tra Bộ Tài Chính cho rằng, căn nguyên của kết quả trên là do các DN CPH, kinh doanh thua lỗ, khó khăn về tài chính nên không có tiền trả Quỹ. Dường như, đó chỉ là cái lý trong muôn vàn cái lý, khi với vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước, Cty mẹ các Tập đoàn, TCty đã buông lỏng quản lý nên dẫn tới tình trạng các Cty con, Cty thành viên mang tiền Nhà nước đi đầu tư ngành ngoài, đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro rồi dẫn đến làm ăn thua lỗ, mất vốn. Trong khi đó, Hội đồng thành viên các Tập đoàn, TCty được giao quyền quá lớn, như việc có thể quyết định đầu tư dự án có giá trị tới 50% tổng tài sản DN. Chính vì việc giao quyền quá lớn mà không đi đôi với nghĩa vụ trách nhiệm cụ thể cộng với tư duy nhiệm kỳ, cơ chế giám sát của Nhà nước lỏng lẻo nên đã xảy ra tình trạng “đụng đâu cũng có vấn đề” như trên.
DN Nhà nước cần quản trị ra sao, vận hành thế nào?
Thừa nhận rằng, quan điểm CPH DN nhà nước ở các quốc gia, trong đó có VN gần như giống nhau, nhưng cách làm lại khác nhau. Khu vực kinh tế nhà nước hay vốn của nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm sở hữu tại DN cổ phần không phải là điều quan trọng (chẳng hạn như Pháp hiện nay kinh tế nhà nước chiếm 52%, Đức hơn 40%), các DN nhà nước kinh doanh chưa hẳn đã kém hiệu quả so với các DN đa thành phần sở hữu, quan trọng là ở chỗ các DN được quản trị ra sao và vận hành như thế nào để đem lại hiệu quả cao.
Với kết quả thanh tra vừa được Thanh tra Bộ Tài chính kết luận, xem ra các Tập đoàn, TCty không cần sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH cho mục đích hỗ trợ sắp xếp DN như ý tưởng ban đầu thành lập quỹ ?
Thực tế hiện nay, chúng ta vẫn có lối tư duy về CPH, tái cơ cấu DN NN là làm sao giảm cho được số lượng DNNN, đây là điều chưa thật sự hợp lý. Và vô hình chung, việc đẩy mạnh CPH DNNN có khi lại dẫn đến việc giám sát không rõ ràng, minh bạch. Do đó, vấn đề hiện nay là thay đổi cách quản trị mô hình quản lý DNNN và tách bạch cơ quan quản lý Nhà nước với cơ quan đại diện vốn. Ví dụ như, nói về Bộ Công Thương, Bộ này không thể vừa là chủ sở hữu DNNN đồng thời lại ban hành các chính sách. Bởi vì, Bộ này không chỉ lo cho DNNN mà lo cho tất cả các thành phần kinh tế khác. Như vậy, để đảm bảo việc cạnh tranh minh bạch rõ ràng thì anh không được là chủ sở hữu các DNNN mà chỉ là cơ quan quản lý DNNN.
Thực tế cho thấy, vì anh là chủ sở hữu DNNN nên đưa ra chính sách dù có đúng thì cũng dẫn đến sự nghi ngờ. Khi chúng ta làm được cái này sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn và chắc chắn nguồn thu vào ngân sách sẽ tăng lên. Và khi đó, bội chi ngân sách Nhà nước sẽ giảm, tốc độ tăng nợ công cũng giảm đi.
Ở đây, người đại diện vốn thể hiện cả hội đồng quản trị, ban kiểm soát phải gắn với trách nhiệm và quyền lợi của họ. Mình không thể nào vừa khống chế tiền lương của tổng giám đốc chỉ 30 triệu trong khi chúng ta không gắn với nó là hiệu quả sử dụng đồng vốn đó, thậm chí DNNN mà chúng ta CPH chúng ta vẫn có thể thuê chuyên gia nước ngoài để quản lý DN đó. Thế thì làm sao khống chế được tiền lương? Nhưng ngược lại, khi đã giao nhiệm vụ quản lý DNNN, tài sản DN thì anh phải có nhiệm vụ minh bạch để người dân có thể giám sát được. Từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn.
Còn về phía DN, muốn chứng minh được hiệu quả phải thể hiện là lợi nhuận anh có không? Và lợi nhuận đó, không phải chỉ là có lời mà phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng. Bởi lẽ, Chính phủ đã phải đi vay bằng phát hành trái phiếu, rồi cấp vốn cho DN. Nếu DN, chỉ có lời mà không đủ bù để trả lãi tiền lãi trái phiếu thì làm sao đánh giá được hiệu quả…
Còn nhớ, Bộ Tài chính đã từng “thiết quân luật” đối với DN chây ỳ trong việc chuyển tiền từ CPH, lợi nhuận, cổ tức của Nhà nước tại các Cty cổ phần… về Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN Trung ương (Quỹ Sản xuất DN) do TCty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) quản lý và sử dụng. Hy vọng, hào khí đó sẽ giúp nhà nước quản lý tốt hơn nữa nguồn vốn, tại các , Tập đoàn, TCty nhà nước, mang lại lòng tin cho dư luận.

Theo GS Ngô Thế Chi Giám đốc Học Viện Tài chính