CEO nào tiếp quản công ty khi đang trong tình thế nguy nan cần nhiều phẩm chất đặc biệt hơn nhiều người khác.Dù đang quản lý một công ty đa quốc gia hay công ty gia đình, một CEO cần rất nhiều phẩm chất đặc biệt. Những ai lên nắm quyền công ty trong khi công ty đang kinh doanh khó khăn sẽ còn vất vả hơn rất nhiều.
Người đó cần phải có một kế hoạch hành động và mục tiêu rõ ràng, thời gian hợp lý và sự ủng hộ của ban điều hành cũng như quản lý cao cấp. Chiến lược tốt ở mức nào cũng cần phải mang lại hiệu quả tài chính, dù đó là thị phần, lợi nhuận tốt hơn, giá cổ phiếu tăng hoặc tốt nhất cả 3 yếu tố trên cộng lại.
Rất hiếm người có thể thành công như Steve Jobs của Apple, người trở về công ty do ông sáng lập và biến nó thành công ty công nghệ kinh doanh có lãi nhất thế giới. Dù vậy, chẳng phải con đường vực dậy nào cuối cùng cũng sẽ toàn “hoa hồng”. Giống như nữ CEO Carol Bartz, dù bà tỏa sáng ở Autodesk, nhưng cuối cùng nỗ lực của bà tại Yahoo chẳng mang lại kết quả gì và cuối cùng bà đã bị sa thải.
Cùng điểm lại 10 câu chuyện nổi tiếng nhất về quá trình vực dậy công ty của các CEO
Peter Cuneo – Marvel Entertainment
Thời gian làm việc: Tháng 7/1999 – Tháng 12/2002
Ông Peter Cuneo bắt đầu làm việc tại Marvel Entertainment ngay khi công ty này hoàn thành thời gian tái cơ cấu sau khi xin bảo hộ phá sản, công ty còn nợ chồng chất và môi trường doanh nghiệp đáng chán. Ông tập trung vào mở rộng hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế và áp dụng mô hình kiểu mẫu, chương trình tivi và sản phẩm tiêu dùng.
Khi ông bắt đầu nắm quyền tại Marvel, cổ phiếu công ty chỉ ở mức 94 cent/cổ phiếu; 10 năm sau đó, công ty được bán cho Walt Disney với giá 4 tỷ USD tương đương 54USD/cổ phiếu.
Richard Clark – Merck & Co
Thời gian làm việc: Tháng 5/2005 – Tháng 12/2010
Ông Richard Clark, người đã làm việc tại Merck 35 năm, lên nắm giữ chức vụ CEO trong bối cảnh công ty đang trong cuộc chiến pháp lý xung quanh sản phẩm Vioxx, thuốc đã bị rút khỏi thị trường do nghi ngờ có liên quan đến bệnh tim và đột quỵ. Ông lập tức sa thải bớt nhân viên và đóng cửa 5 nhà máy để tiết kiệm gần 4 tỷ USD đến năm 2010.
Ông đã khôi phục được uy tín của công ty, dàn xếp xong vụ việc Vioxx và giành thêm được giấy phép cho 8 loại thuốc trong 2 năm. Đến năm 2008, giá cổ phiếu của Merck trở lại thời đỉnh cao trước vụ việc Vioxx và tăng gấp đôi so với thời điểm tháng 4/2005 trước khi ông lên làm CEO.
Gordon Bethune – Continental Airlines
Thời gian làm việc: Tháng 11/1994 – Tháng 11/2004
Gordon Bethune bắt đầu làm việc tại công ty sau khi công ty này hoàn thành thời gian tái cơ cấu sau phá sản sau khi nộp hồ sơ theo chương 11 Luật phá sản. Ở thời điểm đó, Continental Airlines đang thua lỗ 55 triệu USD/tháng và luôn đứng cuối bảng trong mọi tiêu chí, bao gồm thời điểm các chuyến bay, sự phàn nàn của khách hàng và hàng hóa bị chuyển lỗi.
Dưới sự lãnh đạo của Bethune, hãng đã ngừng các chuyến bay không mang lại lợi nhuận, tăng cường dịch vụ, thương lượng lại về nợ và các hợp đồng thuê máy bay… Giá cổ phiếu của công ty tăng 25 lần, từ 2USD lên 50USD/cổ phiếu. Hiện nay, Continental Airlines đứng đầu về sự hài lòng của khách hàng.
Sergio Marchionne – Fiat Group
Thời gian làm việc: Từ năm 2005 đến nay
Khi Sergio Marchionne lên nắm giữ chức vụ CEO, công ty đang nợ nần chồng chất và thua lỗ nặng nề. Ông đã đóng cửa nhà máy, sa thải nhân viên và thay hàng loạt lãnh đạo cao cấp để giành thị phần và giúp công ty kinh doanh có lãi.
Ông thỏa thuận liên minh với Chrysler và chấm dứt hợp tác với General Motors. Trong 2 năm, ông đã giúp Fiat tránh khỏi nguy cơ sụp đổ; mở rộng hoạt động ra Ấn Độ và Trung Quốc. Sau 17 quý thua lỗ liên tiếp, Fiat chính thức kinh doanh có lãi vào năm 2005.
Mark Hurd – Hewlett-Packard
Thời gian làm việc: Tháng 3/2005 – Tháng 8/2010
Mark Hurd nổi tiếng sau khi đã dàn xếp ổn thỏa vụ rắc rối mà HP đương đầu vào năm 2002 khi thâu tóm Compaq. Ông đã làm mạnh chiến lược của HP, tập trung đầu tư vào công nghệ. Để tăng hiệu quả hoạt động, ông sa thải bớt nhân viên và giảm lương hàng loạt.
Ông sắp xếp lại bộ phận kinh doanh và đặt trọng tâm vào hoạt động đào tạo, tuyển dụng cũng như hỗ trợ khách hàng. Từ năm 2006 đến năm 2009, doanh thu của HP tăng từ 86 tỷ USD lên đến 114,6 tỷ USD. Dù rất thành công trong kinh doanh, ông đã buộc phải từ chức bởi bê bối sex.
Terry S. Semel – Yahoo
Thời gian làm việc: Tháng 5/2001 – Tháng 6/2007
Cựu binh của Warner Bros đã tiếp quản Yahoo ở thời điểm hoạt động kinh doanh, doanh thu quảng cáo của công ty đang sụt giảm thê thảm. Ông đã giúp phục hồi lại Yahoo bằng chiến lược tiếp thị sản phẩm và phân phối bán hàng. Ông biến công ty từ chuyên kinh doanh quảng cáo trực tuyến sang hoạt động thu phí.
Ông ký thỏa thuận với SBC Communications (hiện là AT&T), bán băng thông rộng cho hàng triệu hộ gia đình tại Mỹ. Yahoo kiếm được 43 triệu USD trên doanh thu 953 triệu USD vào năm 2002 trong khi Yahoo lỗ tới 93 triệu USD trên doanh thu 717 triệu USD vào năm 2001. Sau khi ông ra đi, Yahoo rất khốn khổ khi phải cạnh tranh với đối thủ bao gồm Google và Facebook
Lee Iacocca – Chrysler Motor
Thời gian làm việc: 1979 – 1992
Sau khi bị sa thải khỏi Ford vào năm 1978, Lee Iacocca đã giúp cứu được Chrysler, hãng ô tô hàng đầu nước Mỹ nhưng đang bên bờ vực phá sản. Ông ký mới hợp đồng với các công ty chuyên cho thuê xe ô tô, sa thải bớt lao động và nhận 1,5 tỷ USD giải cứu từ chính phủ.
Ông thành công với dòng xe K-car vào năm 1981. sau đó, ông tiếp tục thành công với Dodge Caravan và Plymouth Voyager. Năm 1983, Chrysler kiếm được 925 triệu USD và bắt đầu trả được tiền vay cho chính phủ.
James R. Cantalupo – McDonald’s
Thời gian làm việc: 2002 – 2004
Năm 2001, ông từ chức chủ tịch McDonald để nghỉ hưu. Tuy nhiên sau đó ông buộc phải trở lại khi doanh thu của McDonald giảm liên tiếp 2 năm. Sản phẩm của hãng bị chê bai không phù hợp với sức khỏe của con người. Ông lập tức tung ra sản phẩm salad, táo cắt miếng và thực đơn thực phẩm bổ dưỡng hơn.
Doanh thu tăng đều đặn cùng với giá cổ phiếu cũng như thị phần. Đến đầu năm 2003, McDonald lãi 327,4 triệu USD từ mức 253,1 triệu USD cùng kỳ năm 2002. Cổ phiếu McDonald bắt đầu quá trình tăng đều đặn. Ông đã qua đời vì bệnh tim vào tháng 4/2004.
Steve Jobs – Apple
Thời gian làm việc: 1996 – 2011
Steve Jobs, người đồng sáng lập ra Apple, đã trở lại công ty vào năm 1996 để trở thành CEO tạm quyền sau khi mua lại NeXT. Ông trở thành CEO chính thức của Apple vào năm 2007. Ông đã giúp công ty nhận được khoản đầu tư 150 triệu USD từ Microsoft. Ông sắp xếp lại dây chuyền sản xuất, mở cửa hàng để trực tiếp bán sản phẩm cho khách hàng, giảm chi phí hoạt động và tập trung vào tiếp thị máy tính cá nhân. Ông cũng giúp công ty tiến vào lĩnh vực nhạc trực tuyến với sản phẩm iPod và định hình lại ngành di động thế giới với điện thoại iPhone.
Từ khi ông trở lại, cổ phiếu Apple đã tăng hơn 9.000%. Hơn 314 triệu iPod; 129 triệu iPhone và 29 triệu iPad đã được bán ra. Ông từ chức vào tháng 8/2011 và 3 tháng sau qua đời vì ung thư tuyến tụy.
Mickey Drexler – Gap
Thời gian làm việc: 1995 – 2004
Gap đang đối đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ khi Mickey Drexler về tiếp quản công ty vào năm 1995. Ông ngừng bán quần jeans của Levi và hàng thương hiệu khác. Ông Drexler tập trung chỉ bán quần áo của Gap với mục tiêu nhắm tới đối tượng khách hàng giàu có. Ông thay đổi dây chuyền sản xuất, thiết kế lại cửa hàng, từ sàn nhà cho đến trần nhà.
Ông đưa ra nhiều mẫu quần áo thời trang mới, mẫu mã đẹp. Ông biến Gap thành một công ty 14,5 tỷ USD. Chỉ trong 1 thập kỷ, nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm Gap thay đổi hoàn toàn.
Theo: TTVN




